Nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 30 hộ tiến hành phỏng vấn và lấy mẫu ao nuôi cá tra, chọn các hộ nuôi theo xu hướng các tuần tuổi khác nhau chia làm 3 giai đoạn lấy mẫu phân tích đánh giá chất lượng nước thay đổi theo số tuổi của cá. Kết quả cho thấy một số chỉ tiêu phân tích vượt ngưỡng cho phép cần xử lý. Phân tích lợi ích chi phí đưa ra kết quả cho tổng chi phí bao gồm cả chi phí cố định và biến đổi, trong đó chi phí cố định chiếm 20-30% ít hơn so với chi phí biến đổi 70-80%. Các hộ nuôi cá tra trong khu vực khảo sát đều có lợi nhuận trong suốt quá trình nuôi, tuy nhiên chỉ có một số ít hộ (<20%) chưa phát sinh lợi nhuận vì bị ảnh hưởng của một số yếu tố dịch bệnh.
Đặt vấn đề
Cá Tra là loài cá phổ biến hơn cả bởi cả giá trị dinh dưỡng cũng như tính dễ thích nghi và phát triển của nó dù là người dân không lành nghề cũng có thể nuôi một cách thuận lợi. Theo Sở NN&PTNT tỉnh Long An, trên địa bàn tỉnh hiện có trên 3500 ha nuôi cá tra tập trung chủ yếu ở các huyện như Tân Hưng, Tân Thạnh,... Những năm qua, ngành nông nghiệp huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An có bước chuyển dịch mạnh về cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nhất là việc phát triển nuôi thủy sản, góp phần đáng kể vào sự phát triển địa phương. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đồng loạt và tự phát cùng với kinh nghiệm nuôi trồng ít thì việc sang đất đào ao nuôi cá dẫn đến nhiều hệ quả không thể khắc phục đè nặng lên môi trường là rất lớn. Việc người dân truyền nhau lợi ích về nuôi cá Tra để có nguồn thu nhập tốt hơn dẫn đến nhiều đã đánh liều tự phát nuôi, làm cho môi chất lượng nước có khả năng bị ô nhiễm trầm trọng. Vấn đề nuôi trồng thủy sản tự phát và chưa làm rõ các yếu tố kinh tế môi trường sẽ dẫn đến hệ lụy về việc thu nhập cho các hộ nuôi và ảnh hưởng đến môi trường trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập thông tin từ các cơ sở nuôi cá Tra trên địa bàn huyện Tân Thạnh, Chi cục Nuôi trồng và Thú y tỉnh Long An, Chi cục Thủy sản tỉnh Long An, UBND xã Tân Ninh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An, bản đồ quy hoạch và hiện trạng tỉnh, điều kiện KT-XH, báo cáo về hình hình nuôi cá Tra ao đất trên địa bàn tỉnh. Thu thập thông tin từ các bài báo, nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đề tài nghiên cứu.
Phương pháp khảo sát và phỏng vấn: Tiến hành khảo sát và phỏng vấn 30 hộ trên địa bàn xãTân Ninh, huyện Tân Thạnh, Long An. Trong đó, phỏng vấn 15 hộ nuôi cá Tra về quy trình nuôi, hiện trạng ao nuôi cá Tra cũng như chi phí nuôi và lợi thuận thu nhập được qua mỗi chu kì nuôi. Các câu hỏi trong phiếu phỏng vấn tập trung vào các vấn đề về hình thức nuôi, mục đích sử dụng đất trước khi đào ao nuôi, quy mô, nguồn cấp nước nuôi, chi phí nuôi từ lúc bắt đầu nhập giống chi phí đào ao,... và lợi nhuận thu được. Bên cạnh đó, 15 hộ dân lân cận xung quanh khu vực ao nuôi cũng được phỏng vấn để khảo sát mức độ ảnh hưởng của các ao nuôi đến môi trường và cuộc sống của người dân xung quanh.
Phương pháp lấy mẫu: Lấy mẫu nước trong ao tại 6 điểm nuôi ở 3 giai đoạn nuôi khác nhau trên địa bàn xã Tân Ninh.
Mẫu 1 (khu vực nuôi cá giống 2 tháng tuổi quy mô nhỏ lẻ): 2 hộ tại xã Tân Ninh (M1 và M2).
Mẫu 2 (khu vực nuôi cá giống 5 tháng tuổi quy mô nhỏ): Lấy mẫu 2 hộ (M3 và M4).
Mẫu 3 (cá tra giống trên 7 tháng tuổi): Lấy 2 hộ (M5 và M6).
Mẫu được lấy bởi 3 đợt, mỗi đợt phân tích có 2 ao nuôi sinh trưởng cùng một giai đoạn để phân tích và đánh giá.
Phương pháp phân tích: Phân tích các chỉ tiêu pH, nhiệt độ, COD, TSS, Amoni, PO43-.
Phương pháp phân tích CBA: Phân tích tính kinh tế để đánh giá chi phí và lợi ích của các ao nuôi được khảo sát trên địa bàn nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu
Kết quả phân tích chất lượng nước tại ao nuôi
Nhiệt độ: Theo Thông tư 44/2010/TT-BNNPTNT yêu cầu về chất lượng nước trong ao nuôi cá Tra nhiệt độ nuôi giới hạn của cá Tra vào khoảng 25-320C đảm bảo nhiệt độ không vượt quá làm cá bị stress. Kết quả đo cho thấy, các ao nuôi đều có nhiệt độ thích hợp cho cá sinh trưởng. Nước của các ao nuôi tuy khác giai đoạn nuôi nhưng chênh lệch giữa các ao là không lớn do mẫu nước mẫu được lấy cùng một thời điểm nên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như thời tiết mùa vụ dẫn đến tỉ lệ so sánh các ao là có cơ sở.
Độ pH trong nước ao: Theo tiêu chuẩn chất lượng nước ao NTTS qui định giá trị pH dao động 5,5 - 9,0 đối với nước ao nuôi cá Tra. Sau khi đo đạc nhận thấy pH nằm trong khoảng cho phép tuy nhiên có dao động tỉ lệ nghịch với số tháng nuôi. Có thể đánh giá cảm quan khi đến trực tiếp ao cho thấy nước ao càng trong thì pH giảm nhưng vẫn nằm trong ngưỡng cho phép; còn ao nước có màu xanh do tảo phát triển thì pH cao hơn.
Hàm lượng DO: Kết quả đo đạc cho thấy, tất cả các ao có nồng độ DO đạt tiêu chuẩn từ 4.1 - 6,5 mg/L. Theo mẫu ao đo có giao đoạn nuôi 1-3 tháng hay giai đoạn đầu nuôi lượng DO khá cao lượng oxi tiêu hao trong ao thấp. Ở giai đoạn xuất cá thì lượng oxi hòa tan trong khá thấp, sau thời gian nuôi trọng lượng cá tăng, lượng thức ăn cũng như là chất thải của cá tích tụ dưới ao là nguyên nhân của việc hàm lượng DO cuối vụ giảm. Rơi tầm khoảng tháng 6 do chu kì thay nước trong tháng này lên đến 6 lần nên nồng độ DO tăng trở lại.
Tổng TSS: Kết quả phân tích TSS nằm trong giới hạn cho phép theo quy định so với QCVN 02-20:2014 BNNPTNN là dưới 100 mg/L. Nguyên nhân là do các hộ gia đình thường thay nước định kì. Giá trị TSS sẽ biến dộng theo độ tuổi của cá, cá càng có ngày nuôi lâu thì hàm lượng TSS trong ao sẽ tăng theo tỉ lệ thuận.
Amoni trong nước: Hàm lượng NH4+ trong các mẫu nước ao ở giai đoạn 7 tháng tuổi là vượt ngưỡng theo giá trị quy định QCVN là 0,3 mg/L, giá trị phân tích cao gấp 5,6 -6,5 lần so với quy định. Điều này có thể bị ảnh hưởng do chất lượng môi trường không ổn định, ảnh hưởng của thời điểm làm sai lệch kết quả. Nguyên nhân có thể là do sự phát triển của tảo và lượng thức ăn dư thừa trong quá trình cho ăn, đặc biệt ở tháng nuôi càng lâu thì chất thải cá tích tụ ở đưới ao càng nhiều dẫn đến sự tăng vượt trội của chỉ tiêu NH4+.
Chỉ tiêu COD: Nguyên nhân thiếu oxy hòa tan trong nước là do hàm lượng COD gây nên. Các tiêu chuẩn về chất lượng nguồn nước ao nuôi trồng thủy sản không quy định nồng độ COD trong ao, tuy nhiên có QCVN 08-MT: 2015/BNNPTNT quy định nồng độ COD giới hạn cho phép là 30 mg/L. Qua kết quả phân tích mẫu cho thấy, tại những ao nuôi lấy mẫu đều không đạt so với quy định. Nguyên nhân có thể do thời điểm lấy mẫu là mùa khô lưu lượng dòng chảy thấp, nước ao nuôi ít bị pha loãng cộng với lượng thức ăn dư thừa trong ao làm hàm lượng chất hữu cơ tăng cao.
Phân tích hiệu quả kinh tế
Trong thủy sản nói chung và nuôi cá tra nói riêng, cơ cấu chi phí thường được chia làm hai loại chi phí đó là chi phí cố định và chi phí thay đổi. Chi phí cố định chiếm 20-30% ít hơn so với chi phí biến đổi 70-80%.
Chi phí từ hoạt động nuôi cá tra
Chi phí cố định bao gồm chi phí đầu tư ban đầu vào hạ tầng và trang thiết bị, nhằm tạo điều kiện nuôi cá hiệu quả và lâu dài.
Chi phí biến đổi trong nuôi cá tra chủ yếu tập trung vào các hạng mục chính như thức ăn, con giống, thuốc men, lao động, điện nước, và các chi phí phụ. Thức ăn cho cá là hạng mục chiếm tỷ lệ lớn nhất (60-70% tổng chi phí biến đổi), vì cá tra cần lượng lớn thức ăn trong suốt quá trình nuôi, kéo dài từ 6-8 tháng. Đây là yếu tố quyết định sự phát triển và sản lượng cá. Con giống chiếm 10-15%, là chi phí đầu vào quan trọng nhưng chỉ cần mua một lần, không phát sinh liên tục như thức ăn. Thuốc và hóa chất (5-10%) được sử dụng để phòng bệnh và duy trì môi trường nước sạch, trong khi lao động trực tiếp (5-10%) liên quan đến việc chăm sóc và quản lý ao nuôi hàng ngày. Điện và nước chiếm khoảng 3-5%, cần thiết để vận hành hệ thống bơm và sục khí, đảm bảo điều kiện sống cho cá. Cuối cùng, chi phí khác (2-5%) bao gồm các khoản phụ như vận chuyển và xử lý phát sinh. So sánh theo chiều ngang, thức ăn và con giống là hai yếu tố lớn nhất, quyết định sự phát triển của cá, trong khi các chi phí còn lại liên quan đến việc duy trì môi trường và sức khỏe cho cá, tuy tỷ lệ nhỏ nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình nuôi trồng. Trong những chi phí này thì chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất, theo sau là chi phí cá giống. Còn đối với chi phí nhân công thì không đáng kể do các hộ là quy mô nhỏ lẻ nên không cần thuê nhân công để giữ ao. Trong một chu kỳ nuôi cá Tra, chi phí hoạt động ước tính 1.657 triệu đồng/1000 m2. Chi phí hoạt động tính trên một kilogam cá Tra là 47.000 đồng, tương đương 2 USD. Tổng chi phí cố định cho một vụ nuôi trên 1.000 m² là 350.000.000 đồng, khoản chi phí thay đổi tùy theo lượng cá sản xuất, bao gồm thức ăn, con giống, thuốc và hóa chất, lao động, điện nước, và các chi phí khác. Được tính theo chi phí 10.869 đồng/kg cho 46.000 kg cá thu hoạch, tổng chi phí biến đổi là 500.000.000 đồng. Khi cộng tổng chi phí cố định và chi phí biến đổi, ta có tổng chi phí cho một vụ nuôi cá tra trên diện tích 1.000 m² là 850.000.000 đồng. Đây là con số phản ánh toàn bộ khoản đầu tư cần thiết để thực hiện một vụ nuôi cá tra hiệu quả, bao gồm cả đầu tư ban đầu và chi phí vận hành trong suốt quá trình nuôi.
Thu nhập từ hoạt động nuôi cá tra
Trong các hộ khảo sát có những hộ thu được lợi nhuận nhưng cũng có những hộ bị lỗ trong quá trình nuôi và không lấy lại được vốn đầu tư ban đầu. Trung bình người nuôi cá có lợi nhuận thu được 46 tấn cá mỗi vụ trên 1000 m2 diện tích mặt và thu được 26 nghìn đồng/kg. Thu nhập 1.196.000.000. triệu đồng và lợi nhuận 396.000.000 triệu đồng trên 1000 m2.
Qua quá trình khảo sát nhận thấy được các hộ nuôi có sử dụng phương pháp xử lí nuôi như sử dụng vôi tuy nhiên việc sử dụng vôi hay lắng bùn cũng với mục đích làm sạch ao nuôi để nhận lứa cá mới, nên dù có xử lí ao cũng không đáng kể do không làm giảm được nồng độ ô nhiễm nước thải ra. Việc thay nước vẫn thải trực tiếp vào môi trường. Nếu nhà nước quy định cấm xả thải vào các nguồn nước công cộng đa số sẽ chọn ngừng nuôi cá Tra trong khi có rất ít hộ sẵn lòng cho việc sẽ xây ao với các biện pháp giảm thải ô nhiễm. Về việc phối hợp trong việc xử lí nước ao nuôi, đa số các hộ trả lời là đồng ý vì nhận thấy được việc xả thải như hiện nay gây ra ô nhiễm rất lớn với dòng kênh chung. Tuy nhiên, về việc sẵn lòng bỏ ra chi phí lắp đặt hệ thống thì từ chối vì việc áp dụng biện pháp xử lí không tạo ra một lợi ích kinh tế nào cụ thể thậm chí sẽ phải chi trả thêm một khoản phí không thu hồi được. Thông qua khảo sát cũng thấy được những hộ như vậy đầu tư sinh lời nhiều hơn so với hộ áp dụng biện pháp xử lí. Việc xả thải như vậy gây hưởng nghiệm trọng đến môi trường nước và không đúng theo quy định. Tuy nhiên nhà nước ta thì chưa có chế tài nào cho việc xả thải và chính sách cho các việc sử dụng phương pháp xử lí nước thải nhưng vẫn đảm bảo kinh tế cho các hộ nuôi nhỏ lẻ. Thông qua thực tế trên đề xuất những biện pháp xử lí nước ao thải ao nuôi hiệu quả về kinh tế và thân thiện với môi trường.
Kết luận
Ngành nuôi thủy sản là một ngành mang lợi lợi nhuận khá cao, tuy nhiên cũng là một ngành mang đầy tính rủi ro cao vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong các hộ khảo sát thì có đến hơn 80% số hộ có lợi nhuận trong quá trình nuôi. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu trong các ao nuôi cá tra vẫn nằm trong giới hạn cho phép tuy nhiên vẫn có một số chỉ tiêu vượt giới hạn cần quan tâm. Trong việc lựa chọn phương pháp xử lý môi trường cho nuôi cá tra, ba lựa chọn chính là hệ thống sục khí, xây dựng ao xử lý kết hợp với thực vật, và hệ thống lọc sinh học nhỏ giọt, mỗi phương pháp có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Hệ thống sục khí có hiệu suất cao nhất (95-98%) nhưng yêu cầu đầu tư và chi phí hoạt động hàng năm cao. Dựa trên phân tích, hệ thống lọc sinh học nhỏ giọt là lựa chọn hợp lý cho hộ nuôi cá tra. Phương pháp này mang lại sự cân bằng tốt giữa đầu tư ban đầu và chi phí hoạt động hàng năm, đồng thời cung cấp hiệu suất xử lý cao.
Tài liệu tham khảo
1 Thanh Thủy (2024) Tổng sản lượng thủy sản Quý I năm 2024 - Chi cục thủy sản;
2 Thuận, N.V., Danh (2014) Thị trường cá tra Việt Nam phân phối thu nhập chuỗi-giá thành sản xuất cá tra nguyên liệu-giải pháp phát triển ngành (32), Tạp chí khoa học, 38-44;
3 Abraham Falola, Ridwan Mukaila, and Joshua Oluwasegun Emmanuel, Economic analysis of small-scale fish farms and fund security in North-Central Nigeria, Aquaculture International, 2022.
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
Viện Ứng dụng công nghệ và phát triển bền vững
Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 21 (Kỳ 1 tháng 11) năm 2024
Nguồn tin: tainguyenvamoitruong.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn