Bảo vệ vùng ven biển trước thiên tai, biến đổi khí hậu

Thứ tư - 09/08/2023 03:06
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo, luôn chịu nhiều tác động xấu do thiên tai gây ra hơn so với các địa phương sâu trong lục địa. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, các địa phương ven biển – vốn tập trung nhiều đô thị, phát triển hạ tầng giao thông vận tải, kết nối, tập trung nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng và dân số đông - sẽ càng dễ bị tổn thương.
Bảo vệ vùng ven biển trước thiên tai, biến đổi khí hậu

Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường đã có buổi trao đổi với TS. Nguyễn Quốc Khánh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu.

PV: Trên cơ sở các nghiên cứu, dự báo kịch bản BĐKH và nước biển dâng, xin ông cho biết những nguy cơ thiên tai mà người dân tại các địa phương vùng ven biển sẽ phải đối mặt?

TS. Nguyễn Quốc Khánh: Cả nước có 28/63 tỉnh/thành phố có biển, nhưng có tới 34 tỉnh/thành phố có nguy cơ ngập do nước biển dâng (bao gồm toàn bộ 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long), trong đó bao gồm hơn 100 đơn vị hành chính cấp TP, thị xã, huyện có đường bờ biển.

Các kịch bản dự báo cho thấy, do ảnh hưởng của BĐKH, khu vực ven biển của Việt Nam thường xuyên phải chịu những rủi ro do thiên tai nhiều nhất cả nước và tác động không nhỏ đến đời sống xã hội, phát triển kinh tế.

BĐKH sẽ làm cho diện tích nhiễm mặn ở vùng ven biển tăng đáng kể, từ đó giảm sút sản lượng lúa và nhiều hậu quả khác về môi trường. BĐKH còn làm suy giảm đa dạng sinh học vùng ven bờ, thay đổi hệ sinh thái của các vùng thấp ven sông, trong sông và cửa sông do thay đổi lượng mưa, dòng chảy mặt và nước ngầm cùng một số đặc trưng của chất lượng nước và chất dinh dưỡng. Các đợt hạn hán ngày càng xuất hiện nhiều hơn tại nhiều địa phương ven biển sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập mặn. Nhất là khu vực Nam Trung Bộ, lượng mưa hàng năm trong khu vực đạt thấp nên dòng chảy tại khu vực này sụt giảm mạnh dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn lấn sâu vào đất liền, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp và nguồn nước sinh hoạt của người dân ven biển.

Đối với các loại cây trồng khác như hoa màu, các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày cũng bị ảnh hưởng, năng suất cây trồng giảm khoảng 50% do tác động của BĐKH. Ngược lại, ngập lụt kéo dài cũng gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của người dân. Ô nhiễm nước do lũ lụt cũng gây ra các bệnh liên quan do thiếu nước sạch và vệ sinh môi trường không đảm bảo như bệnh đau mắt, bệnh ngoài da, bệnh phụ nữ và các bệnh về đường hô hấp.

Khu vực ven biển còn chịu tác động nghiêm trọng của nước biển dâng. Theo Kịch bản BĐKH của Việt Nam năm 2020, nếu mực nước biển dâng thêm 100 cm, khu vực Đồng bằng Sông Cửu long có nguy cơ ngập khoảng 47% diện tích, khoảng 10% dân số tại khu vực ĐBSCL bị ảnh hưởng trực tiếp do mất đất. Khi mực nước biển dâng trung bình 57cm, sẽ có khoảng 8% diện tích rừng và thảm thực vật tự nhiên ở vùng ven biển có nguy cơ bị ngập. Diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nghiêm trọng nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bà Rịa - Vũng Tàu, Nam Định và TP. Hồ Chí Minh.

Sự phát triển nhanh của đô thị và kinh tế-xã hội cộng hưởng với tác động của nóng lên toàn cầu, dẫn đến làm gia tăng nhanh hơn các hiện tượng cực đoan, cũng như rủi ro khí hậu ở các địa phương ven biển. Trong đó, những tác động cần chú ý đó là nước biển dâng, xâm nhập mặn, ngập lụt đô thị, đảo nhiệt đô thị và nắng nóng, lũ lụt, sạt lở bờ sông và bờ biển, gió mạnh, bão và áp thấp nhiệt đới…

Do vậy, để ứng phó hiệu quả với thiên tai và BĐKH, chúng ta cần làm rõ bản chất về vấn đề khoa học với các quá trình phát triển, làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch và phát triển đô thị, các địa phương ven biển; Quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội cần lồng ghép ứng phó với thiên tai, BĐKH và giảm phát thải khí nhà kính (KNK).

Khu vực ven biển thường xuyên hứng chịu các đợt mưa bão

PV: Việc chủ động thích ứng BĐKH sẽ đem lại hiệu quả như thế nào cho địa phương cả trong giai đoạn trước mắt và dài hạn, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Khánh: Việc chủ động thích ứng với BĐKH ở cấp địa phương thể hiện rõ qua việc xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH tại các tỉnh, trong đó xác định các giải pháp ứng phó theo từng giai đoạn. Chính vì vậy, trong các kịch bản 2009, 2012, 2016 và 2020 của Bộ TN&MT đều có tham vấn và khuyến cáo sử dụng kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng để lồng ghép vào xây dựng các giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu vào phát triển kinh tế xã hội.

Cụ thể sau Hội nghị COP 26, các nhà lãnh đạo thế giới, trong đó có Việt Nam đã cùng cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được những cam kết này, nhiều giải pháp được đưa ra, trong đó, có việc lồng ghép ứng phó với BĐKH trong chính sách phát triển vĩ mô như chiến lược, quy hoạch và kế hoạch, cũng như các chương trình, dự án cụ thể. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, lồng ghép nội dung thích ứng và giảm nhẹ BĐKH sẽ mang lại những lợi ích về kinh tế - xã hội và môi trường. Việc lồng ghép này thể hiện ở việc phân tích, đánh giá mối tương tác giữa các yếu tố khí hậu thay đổi theo thời gian, không gian như mưa, nhiệt độ, giông, bão, nước biển dâng... với yếu tố địa hình, cấu tạo địa chất, sử dụng đất, chế độ thủy văn trong lập quy hoạch, kế hoạch, dự án…

Đặc biệt theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định thực hiện “lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch” (Điều 93) nhằm đảm bảo các vấn đề về biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, thực hiện các mục tiêu giảm phát thải KNK của quốc gia, giảm thiểu tác động và rủi ro do BĐKH và tạo nền móng cho phát triển bền vững.

Thực hiện lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy hoạch sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng cường sự phối hợp liên ngành, liên vùng và đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hoàn thiện chính sách và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư ứng phó với biến đổi khí hậu. Hiện nay, hầu hết các Bộ, ngành, địa phương đều đã đưa ra kế hoạch lồng ghép nội dung ứng phó BĐKH trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Lợi ích của việc chủ động thích ứng sẽ tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và kinh tế của các tỉnh. Từ đó mang lại một số lợi ích nổi bật cho các địa phương, giúp nâng cao được khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, đảm bảo sinh kế bền vững của từng địa phương. Ví dụ rõ nhất là tại các tỉnh ven biển và khu vực ĐBSCL, khi các dự án liên quan đến gây bồi, tạo bãi, trồng và phục hồi rừng ngập mặn ven biển được triển khai.

Thành phố biển Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) bị ngập lụt vào mùa mưa. Ảnh: Thanhnien.vn

PV: Xin ông cho biết một số nghiên cứu, đề tài mà Viện KHKTTV&BĐKH đang triển khai để góp phần đánh giá được mức độ rủi ro thiên tai ngày càng gia tăng vùng ven biển, và giải pháp đưa ra là gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Khánh: Hiện tại, Viện KH KTTV&BĐKH đã và đang triển khai những nghiên cứu cấp Bộ, cấp Nhà nước về phân cấp, đánh giá rủi ro các loại hình thiên tai ở Việt Nam; Nghiên cứu xây dựng hệ thống cảnh báo cấp độ rủi ro thiên tai bão và áp thấp nhiệt đới theo các bản tin dự báo khí tượng thủy văn và áp dụng thử nghiệm cho khu vực Bắc Trung Bộ; Nghiên cứu về các giải pháp khoa học và công nghệ quản lý đa thiên tai, xây dựng công cụ hỗ trợ cho khu vực ven biển, khu vực ven biển Trung Trung Bộ… góp phần đánh giá được mức độ rủi ro thiên tai ngày càng gia tăng.

Theo Luật KTTV, chúng ta cần xây dựng và cập nhật các kịch bản BĐKH 5 năm một lần, hoặc theo các công bố mới nhất của IPCC. Do vậy, Viện KH KTTV&BĐKH đã xây dựng kế hoạch trình Bộ kịch bản phát thải phê duyệt nhiệm vụ “Xây dựng Kịch bản Biến đổi khí hậu cho Việt Nam” và dự kiến công bố vào năm 2025.

Kịch bản được xây dựng trên cơ sở Báo cáo mới nhất về đánh giá BĐKH (AR6) do Uỷ ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), cùng với các kịch bản phát thải mới, trong đó có tính đến các chính sách can thiệp. Dự kiến, kịch bản BĐKH sắp tới sẽ chi tiết đến cấp huyện cho các tỉnh ven biển, đặc biệt có dự tính các giá trị cực đoan của nước dâng và sóng, nước dâng tổng cộng do bão, cũng như nguy cơ ngập do nước biển dâng.

Qua đánh giá của Viện, để thích ứng và phòng chống thiên tai, các địa phương, Bộ, ngành liên quan cần phải tuân thủ các quy định của Luật Phòng, chống thiên tai; cũng như chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về chủ động ứng phó thiên tai. Trong đó, nâng cao hiệu quả công tác dự báo, cảnh báo KTTV biển, bao gồm cả dự báo tác động, xây dựng bản đồ phân vùng rủi ro đa thiên tai vùng ven biển, xây dựng các mốc cảnh báo ngập lụt do nước dâng do bão, triều cường cho toàn dải ven biển; xây dựng hệ thống trực canh và cảnh báo sóng thần kết hợp với cảnh báo các loại thiên tai khác; xây dựng và cập nhật các kịch bản BĐKH và NBD; củng cố, nâng cao cấp hệ thống đê biển, đảm bảo chống các cấp bão thường xuyên xảy ra (bão kết hợp triều cường); tTăng cường trồng cây chắn sóng, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ở cửa sông, ven biển, bảo tồn cồn cát tự nhiên ven biển.

Đối với các cấp chính quyền, cần phải thường xuyên kiểm tra việc đảm bảo an toàn thiên tai đối với các hoạt động xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bố trí dân cư (tập trung, nhỏ lẻ), phát triển kinh tế - xã hội, không làm gia tăng rủi ro thiên tai. Đồng thời xử lý các dự án, hoạt động gây cản lũ, thu hẹp không gian trữ, lấn ra bờ sông, bờ biển, vi phạm hành lang thoát lũ.

Chính quyền cũng triển khai đánh giá thực trạng, rà soát kịch bản, phương án ứng phó với các cấp độ rủi ro thiên tai, phương án trọng điểm bảo vệ đê điều, hồ đập, công trình hạ tầng kỹ thuật… kiểm tra, kiểm soát lực lượng, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị để sẵn sàng triển khai phương án theo phương châm 4 tại chỗ. Nhất là kịch bản, phương án sơ tán, di dời dân cư phòng tránh ngập lụt do mưa, triều cường và nước dâng do bão. Rà soát, kiểm tra phương án đảm bảo giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không tại các khu vực thường xuyên bị thiên tai; chuẩn bị vật tư, phương tiện sẵn sàng khôi phục đảm bảo giao thông thông suốt.

Bên cạnh đó, cần đưa kiến thức, kỹ năng phòng chống thiên tai vào nội dung chính khóa, ngoại khóa, chuyên đề trong các cấp học. Rà soát, kiểm tra cơ sở vật chất các trường học trong khu vực thường xuyên bị thiên tai đảm bảo trường học an toàn đồng thời là nơi tránh trú cho người dân trong khu vực. Tăng cường truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp truyền thông truyền thống, truyền thông cơ sở để kịp thời truyền tải thông tin tới từng người dân để chủ động chuẩn bị, phòng tránh, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Các hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm chủ động chuẩn bị nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm phục vụ hoạt động phòng, chống thiên tai theo hướng dẫn của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống thiên tai và Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn; chủ động thực hiện biện pháp ứng phó thiên tai và tham gia ứng phó thiên tai theo sự điều động của cơ quan có thẩm quyền.

Chủ phương tiện, tàu thuyền hoạt động trên biển, trên sông phải trang bị đầy đủ phao cứu sinh, thiết bị thông tin, tín hiệu phù hợp; phải cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về vị trí, tình trạng của phương tiện đang hoạt động cho chính quyền địa phương, cơ quan chức năng khi thiên tai xảy ra; khi gặp tàu thuyền khác bị nạn phải kịp thời cứu hộ, tìm kiếm, cứu nạn, trường hợp vượt quá khả năng phải bằng mọi cách thông báo cho cơ quan tìm kiếm, cứu nạn.

Người dân cũng cần chấp hành sự hướng dẫn, chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan, người có thẩm quyền về sơ tán người, phương tiện ra khỏi hoặc không đi vào khu vực nguy hiểm.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn tin: monre.gov.vn

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây