Xử lý chất thải sinh hoạt đang là vấn đề “nóng” được Bộ Tài nguyên và Môi trường, doanh nghiệp và người dân quan tâm. Đặc biệt, việc áp dụng công nghệ nào cho phù hợp với điều kiện thực tiễn từng địa phương để mang lại hiệu quả tốt về kinh tế xã hội, chi phí,… là “bài toán” chưa có lời giải. Xoay quanh vấn đề này, phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Tiến Dũng, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình.
PV: Vấn đề xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở Ninh Bình hiện nay được chính quyền chỉ đạo và người dân thực hiện như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Tiến Dũng: Ninh Bình là một tỉnh cực Nam đồng bằng Bắc Bộ với diện tích khoảng 1.411 km2, dân số khoảng 1 triệu người trong đó dân số đô thị khoảng 22%, nông thôn khoảng 78%. Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 560 tấn/ngày, chất thải từ khu vực đô thị chiếm khoảng 35%; khu vực nông thôn khoảng 65%.
Với đặc thù của tỉnh Ninh Bình có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích văn hóa, lịch sử, lễ hội như: Khu danh thắng Tràng An, Vườn Quốc gia Cúc Phương, Nhà thờ đá Phát Diệm, Lễ hội Hoa Lư,… Tỉnh Ninh Bình xác định du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn. Do đó, trong những năm qua công tác thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và thực hiện, cùng với đó là sự tích cực hưởng ứng của người dân, doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch.
Vì thế, công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã đạt được nhiều kết quả góp phần làm thay đổi cảnh quan môi trường các khu dân cư, nơi công cộng; người dân được sống trong môi trường trong lành, sạch đẹp.
Đến nay, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý đạt khoảng 87%. Hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 03 khu xử lý chất thải bao gồm: Khu xử lý chất thải tại xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp (xử lý chôn lấp và sản xuất mùn hữu cơ) thực hiện xử lý chất thải cho 139/143 xã, phường, thị trấn và 02 lò đốt rác tại xã Hồi Ninh và xã Kim Đông, huyện Kim Sơn.
Chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chủ yếu được xử lý bằng công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh (khoảng 75% khối lượng chất thải xử lý, chôn lấp tại 01 bãi) còn lại là xử lý thành mùn hữu cơ (khoảng 23% khối lượng chất thải xử lý tại 01 nhà máy, một số điểm xử lý của các thôn, xóm và của các hộ gia đình) và đốt trong lò đốt rác (khoảng 2% khối lượng tại 02 lò đốt công suất 500 - 800 kg/giờ).
Việc chôn lấp chất thải tại các bãi rác mặc dù có chi phí xử lý thấp nhưng có một số vấn đề đó là chiếm diện tích lớn trong khi quỹ đất để xử lý chất thải ngày càng hạn chế, nguy cơ ô nhiễm môi trường cao do thời gian xử lý kéo dài, các chất thải phân hủy tạo ra nước thải, khí thải có chứa các chất độc hại gây ô nhiễm không khí, nguồn nước. Sau khi đóng bãi chôn lấp phải thực hiện các giải pháp để cải tạo, phục hồi môi trường khu vực chôn lấp. Hiện, bãi rác của tỉnh đã quá tải do lượng chất thải tập kết về lớn hơn nhiều so với thiết kế; việc đầu tư xây dựng bãi rác mới là không khả thi do các nguy cơ ô nhiễm môi trường, các địa phương có quy hoạch khu xử lý chất thải không chấp thuận phương án chôn lấp.
Việc xử lý các loại chất thải thực phẩm thành mùn hữu cơ tại các cơ sở xử lý hoặc các hộ gia đình giúp giảm khối lượng chất thải phải xử lý như: Chôn lấp, đốt đồng thời tận dụng nguồn mùn hữu cơ làm phân bón cho cây trồng đem lại lợi ích về kinh tế và môi trường.
Để nâng cao hiệu quả của công nghệ này cần phải tăng cường phân loại chất thải tại nguồn giúp giảm thiểu chi phí xử lý và tình trạng ô nhiễm trong quá trình thu gom, vận chuyển. Mặt khác, việc phân loại chất thải tại nguồn cũng giúp nâng cao chất lượng mùn hữu cơ do không bị lẫn tạp chất.
Các lò đốt rác với công suất 500 - 800 kg/giờ thường xử lý chất thải cho 02-03 xã giúp giảm chi phí vận chuyển chất thải do đó phù hợp với các địa bàn xa xôi, đi lại khó khăn đồng thời có thể tận dụng lao động tại chỗ. Tuy nhiên, phải đảm bảo vận hành lò đốt đúng quy trình kỹ thuật đồng thời bố trí kinh phí để sửa chữa, bảo dưỡng đảm bảo lò đốt hoạt động hiệu quả không thải khí thải gây ô nhiễm môi trường.
Năm 2023, tỉnh Ninh Bình đã thu hút đầu tư xây dựng 01 nhà máy điện rác công suất 500 tấn/ngày, công suất phát điện 15MW. Xử lý chất thải bằng công nghệ đốt phát điện giúp giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường do rác thải, giảm thiểu lượng chất thải phải chôn lấp, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tận dụng năng lượng từ rác thải. Tuy nhiên, đầu tư xây dựng nhà máy điện rác cần nguồn kinh phí lớn và phải quản lý chặt chẽ chất lượng khí thải đồng thời đảm bảo đủ nguồn cung rác thải để nhà máy hoạt động ổn định.
Có thể nói ngoài việc nâng cao ý thức trong việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt và tổ chức hiệu quả hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt thì việc đầu tư xây dựng các khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt là nội dung rất quan trọng để đảm bảo xử lý chất thải đáp ứng các yêu cầu kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
PV: Vậy, ông có đề xuất gì với Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân các cấp về vấn đề nêu trên?
Ông Nguyễn Tiến Dũng: Để nâng cao chất lượng quản lý chất thải rắn sinh hoạt giảm thiểu ô nhiễm môi trường do chất thải, đề xuất một số giải pháp quản lý và áp dụng kỹ thuật, công nghệ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, tôi có một số đề xuất như sau:
Một là, thực hiện phân loại chất thải tại nguồn, tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải; tận dụng chất thải thực phẩm làm thức ăn chăn nuôi hoặc phân bón hữu cơ trong phạm vi thôn, xóm, xã để giảm thiểu chi phí vận chuyển, xử lý chất thải và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Hai là, tổ chức thu gom, vận chuyển chất thải đồng bộ với các nhóm chất thải đã được phân loại đảm bảo không để lẫn các nhóm chất thải với nhau; thu gom triệt để các loại chất thải phát sinh, không để tồn đọng chất thải dài ngày tại các hộ gia đình, điểm tập kết gây ô nhiễm môi trường.
Ba là, lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp với thực tế của từng địa phương do mỗi công nghệ xử lý chất thải có các ưu, nhược điểm khác nhau như: diện tích, chi phí xử lý, khối lượng chất thải phát sinh,… và mỗi địa phương có điều kiện thực tế khác nhau như: Quỹ đất, mật độ dân số, ngân sách,… để đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải với công suất phù hợp đảm bảo không bị quá tải và đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường, đồng thời cần xem xét ưu tiên các công nghệ do các doanh nghiệp trong nước làm chủ.
Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có định hướng cụ thể về công nghệ xử lý chất thải; triển khai nhân rộng các mô hình xử lý có công nghệ tiên tiến, hiệu quả để các địa phương nghiên cứu, thống nhất áp dụng, tránh đầu tư lãng phí, đầu tư nhiều kinh phí nhưng hiệu quả xử lý thấp.
Ngoài ra, UBND các cấp cần bố trí ngân sách đủ và kịp thời để chi trả cho các hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải và ngân sách cho hoạt động sửa chữa bảo dưỡng các máy móc, thiết bị, phương tiện đối với các cơ sở xử lý có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước tránh lãng phí đầu tư.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn tin: tainguyenvamoitruong.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn