Vai trò của Quy hoạch bảo vệ môi trường trong kiểm soát nguồn thải

Thứ năm - 13/03/2025 23:16
Ngày 8/7/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 611/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bài viết đề cập đến mối liên quan giữa công cụ quy hoạch bảo vệ môi trường trong quản lý và kiểm soát xả nước thải ở nước ta hiện nay

Quy hoạch đưa ra giải pháp về tổ chức và giám sát thực hiện quy hoạch gồm: (1) Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng; (2) Hoàn thiện tổ chức bộ máy, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong bảo vệ môi trường; (3) Hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; (4) Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; 5) Ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; xây dựng hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới quan trắc và cơ sở dữ liệu môi trường; (6) Tăng cường đầu tư tài chính; (7) Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. 
    Phân biệt 2 khái niệm “quy hoạch môi trường” và “quy hoạch BVMT”

   Quy hoạch môi trường (QHMT) là quy hoạch địa điểm bố trí các dự án theo sức chịu tải/khả năng tiếp nhận chất thải của nguồn tiếp nhận. Còn Quy hoạch BVMT lần đầu tiên được luật hóa ở nước ta trong Luật BVMT năm 2014, theo đó “Quy hoạch BVMT là việc phân vùng môi trường để bảo tồn, phát triển và thiết lập hệ thống hạ tầng kỹ thuật BVMT gắn với hệ thống giải pháp BVMT trong sự liên quan chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH nhằm bảo đảm phát triển bền vững”. Trong khi đó, QHMT được đề cập trong nhiều quy định và đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Có thể hiểu QHMT là một quy hoạch không gian với mục tiêu trọng tâm là phát triển bền vững. Đó là một quá trình ra quyết định với việc xem xét đồng thời các yếu tố quản trị về chính trị, KT-XH và môi trường nhằm quản lý các mối quan hệ tồn tại giữa các hệ thống tự nhiên - xã hội một cách hiệu quả, minh bạch và công bằng vì lợi ích của tất cả các thành phần của các hệ thống này ở hiện tại và tương lai.

   Có thể minh họa đơn giản để rõ hơn sự khác nhau của 2 loại quy hoạch: Một loại hình Nhà máy có tiềm năng thải nhiều chất thải độc hại (ví dụ dệt nhuộm, luyện gang thép, lọc hóa dầu, nhiệt điện…) chỉ có thể được xây dựng và hoạt động ở vị trí được nêu trong QHMT, sao cho nước thải hoặc khí thải từ Nhà máy này không làm thay đổi giá trị giới hạn cho phép các thông số quy định trong chất lượng môi trường xung quanh (nước mặt, nước biển, không khí). Nếu vì lý do cần cơ sở hạ tầng hỗ trợ (cảng, hệ thống giao thông, hệ thống cấp nước và thoát nước, điện,…) phải lựa chọn nơi có hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải rắn tập trung, đã được xây dựng và vận hành theo quy hoạch BVMT, đảm bảo không gây tác động bất lợi cho môi trường xung quanh. Dĩ nhiên trong cả 2 trường hợp, chất thải đều phải xử lý đạt QCVN ngành tương ứng trước khi thải ra ngoài môi trường tiếp nhận (phù hợp với QHMT) hoặc vào hệ thống xử lý tập trung.

   Như vậy, cả 2 công cụ quy hoạch này đều đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát nguồn thải, nhằm đảm bảo môi trường xung quanh (trong trường hợp đang đề cập là môi trường tiếp nhận nước thải) luôn duy trì được chất lượng theo quy định của các QCVN tương ứng.

   QHMT được áp dụng trong đánh giá tác động môi trường (ĐTM) nhằm mục đích phân tích và giảm thiểu các tác động môi trường của các dự án phát triển đề xuất và chỉ ra các điểm xả thải phù hợp theo QHMT để đảm bảo những dự án này đáp ứng tất cả các quy định. QHMT có liên hệ mật thiết với sức chịu tải của môi trường tiếp nhận. Sức chịu tải của môi trường là giới hạn chịu đựng của môi trường đối với các nhân tố tác động để môi trường có thể tự hồi phục. Như vậy, trong QHMT việc phân tích sức chịu tải của môi trường được sử dụng để định hướng các quyết định phân bổ sử dụng đất, sử dụng nước và sử dụng tài nguyên thiên nhiên khác cho các hoạt động phát triển, nhằm đảm bảo không vượt quá năng lực của môi trường. Trong trường hợp xả thải các chất ô nhiễm vào môi trường nước, sức chịu tải là khả năng tự làm sạch của nguồn nước tiếp nhận nước thải để chất lượng môi trường nước đáp ứng tiêu chuẩn/quy chuẩn tương ứng. Sức chịu tải của môi trường không phải là bất biến mà thay đổi theo thời gian do điều kiện tự nhiên thay đổi (đặc biệt do biến đổi khí hậu làm thay đổi nhiệt độ, lưu lượng dòng chảy) nhất là do gia tăng các hoạt động phát triển KT-XH trong toàn lưu vực dẫn đến gia tăng số lượng và chất lượng nguồn xả thải. Vì vậy, QHMT cần dự báo được sự những sự thay đổi này trong kỳ quy hoạch và định hướng bố trí các dự án phát triển phù hợp với quy hoạch xả thải trên cơ sở đánh giá, dự báo sức chịu tải của môi trường tiếp nhận.

    Quản lý xả thải và kiểm soát ô nhiễm nguồn nước

   Thực chất, quản lý xả thải và kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nhằm mục đích cuối cùng là giảm tổng tải lượng các chất ô nhiễm thải vào vùng nước tiếp nhận thông qua xác định các mục tiêu cần quản lý (các thông số cơ bản quyết định chất lượng nguồn nước) trong mối liên quan đến sức chịu tải của môi trường tiếp nhận, từ đó quy định tổng tải lượng thải tối đa cho phép và mức độ xả thải cho từng nguồn thải. Các tiêu chuẩn, quy chuẩn về nước thải cần phải được xây dựng trên cơ sở mục đích cơ bản này, có lưu ý xem xét tính khả thi của các phương pháp xử lý nước thải và giảm thiểu chất ô nhiễm đến mức tối đa (nguyên tắc áp dụng BAT). Cùng với đó, cần sớm ban hành bộ QCVN về chất thải cho một số ngành đặc thù (nước làm mát, nước thải nuôi trồng thuỷ sản,..), thậm chí quy định giá trị giới hạn tổng lượng các chất gây ô nhiễm được phép thải ra môi trường trên một đơn vị sản phẩm.
    Tương tự như nhiều nước trên thế giới, hệ thống QCVN về môi trường bao gồm: Chất lượng môi trường; chất thải; độ ồn, rung. QCVN về chất lượng môi trường và QCVN về độ ồn, rung được xây dựng dựa trên giá trị giới hạn tối đa cho phép của các thông số đảm bảo không ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và hệ sinh thái, do đó có thể dựa trên kinh nghiệm của các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài. Trong khi đó, QCVN về chất thải được xây dựng nhằm đảm bảo các chất thải khi thải ra môi trường không làm thay đổi chất lượng môi trường đến mức vượt quá quy định trong các QCVN về chất lượng môi trường tương ứng, phải dựa trên các kết quả nghiên cứu, đánh giá hiện trạng (dự báo tương lai) về chất lượng môi trường tiếp nhận, chính xác hơn là hiện trạng và tương lai của sức chịu tải của môi trường ở từng khu vực xả thải. Ngoài ra, trong khi QCVN về chất lượng môi trường ít thay đổi theo thời gian (trừ khi khoa học phát hiện ra các thông số ô nhiễm mới hoặc có sự thay đổi về ngưỡng ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hệ sinh thái), thì QCVN về chất thải cần phải được soát xét và xây dựng lại theo sự thay đổi về sức chịu tải môi trường tiếp nhận.
   QCVN về chất thải được xây dựng nhằm đảm bảo các chất thải khi thải ra môi trường không làm thay đổi chất lượng môi trường đến mức vượt quá quy định trong các QCVN về chất lượng môi trường tương ứng, phải dựa trên các kết quả nghiên cứu, đánh giá hiện trạng (dự báo tương lai) về chất lượng môi trường tiếp nhận, chính xác hơn là hiện trạng và tương lai của sức chịu tải của môi trường ở từng khu vực xả thải. Ngoài ra, trong khi QCVN về chất lượng môi trường ít thay đổi theo thời gian (trừ khi khoa học phát hiện ra các thông số ô nhiễm mới hoặc có sự thay đổi về ngưỡng ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hệ sinh thái), thì QCVN về chất thải cần phải được soát xét và xây dựng lại theo sự thay đổi về sức chịu tải môi trường tiếp nhận.

Tiếp cận “kỹ thuật sẵn có tốt nhất - bat” trong xây dựng tiêu chuẩn, QCKT về chất thải

   BAT có thể ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tốt nhất việc phát thải các chất ô nhiễm và tác động của chúng tới môi trường. Thuật ngữ “kỹ thuật” được sử dụng trong trường hợp này bao gồm cả công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý chất thải trong tất cả các giai đoạn của dự án: xây dựng, vận hành, tháo dỡ thiết bị (khi dự án chấm dứt hoạt động). Thuật ngữ “sẵn có” ngụ ý các kỹ thuật nêu trên đã được phát triển ở quy mô có thể áp dụng trong lĩnh vực công nghiệp có liên quan, đồng thời khả thi về mặt kinh tế và kỹ thuật; “tốt nhất” có nghĩa là phương pháp hiệu quả nhất để đạt được một mức độ cao về BVMT.

   Như vậy, cách tiếp cận theo hướng phát triển bền vững là các tiêu chuẩn/QCKT về môi trường cần được xây dựng sao cho quy định về các giá trị giới hạn cho phép trong đó phải dựa trên mức độ có thể đạt được bằng cách sử dụng BAT.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây