Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Patrick Haverman, Phó Đại diện thường trú UNDP cho biết, trong bối cảnh nhu cầu nền công nghiệp và nền kinh tế đang phát triển tại Việt Nam còn gặp nhiều thách thức về nhu cầu tiêu thụ năng lượng, với tốc độ khoảng 10 đến 12% hàng năm nên để tránh tình trạng thiếu điện cục bộ và tăng cường an ninh năng lượng, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt cam kết của JETP để giảm 30% lượng phát thải cao nhất hàng năm từ ngành năng lượng, và xây dựng kế hoạch đẩy lùi thời điểm đạt đỉnh phát thải 5 năm, gia tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản xuất điện từ 36% lên ít nhất 47% vào năm 2030, điều chỉnh giảm lượng than đá tối đa và đỉnh phát thải vào năm 2030 thay vì năm 2035.
Thực hiện thành công các mục tiêu này sẽ cần sự đóng góp vai trò tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa từ năng lượng Hydro (H2) xanh, với tiềm năng sẽ phát triển trong thời gian tới, hướng Việt Nam đến lợi ích lâu dài trong bối cảnh định giá giới hạn, đặt các mục tiêu, xây dựng chiến lược, quy định và cung cấp các ưu đãi dựa trên thị trường để giảm cac-bon.
Ông Lê Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện năng lượng – Bộ Công Thương nhấn mạnh, Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” tại COP26, vì vậy năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu. Cùng với những giải pháp về phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển nguồn điện có phát thải carbon thấp… H2 xanh và những dẫn xuất của H2 xanh đang được thế giới quan tâm và kỳ vọng là giải pháp có vị trí ngày càng quan trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng do những đặc tính ưu việt về giảm phát thải các khí ô nhiễm và CO2 trong vòng đời sản phẩm, dù là nhiên liệu của quá trình chuyển hóa năng lượng hay là nguyên liệu đầu vào của những ngành sản xuất công nghiệp.
Do đó, dự án này được thực hiện với mục tiêu hỗ trợ cho các bên liên quan của Việt Nam như cơ quan quản lý Nhà nước, nhà đầu tư và các tổ chức trung gian, nhà tài trợ, chuyên gia… có thêm được góc nhìn tổng thể về vai trò của hydro xanh, cùng các luận cứ cần thiết khi đưa ra quyết định. Để từ đó quá trình xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phát huy hiệu quả trong hỗ trợ phát triển ứng dụng, sản xuất hydro xanh cho mục đích giảm phát thải khí nhà kính và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch ở Việt Nam. Kết quả của dự án sẽ là bước khởi đầu cho nhiều nghiên cứu, hợp tác tiếp theo giữa UNDP và các đối tác trong nước về vấn đề này, trong đó có Viện Năng lượng.
Tại Hội thảo, ông Nguyễn Xuân Trung, Viện Năng Lượng đã trình bày tham luận về Dự báo nhu cầu hydro và amoniac cho các ngành kinh tế Việt Nam đến 2050, trong đó, ông nhấn mạnh, hiện nay H2 xanh được xem như một nguồn năng lượng thế hệ mới, một nguồn năng lượng thay thế tối ưu trong tương lai gần. Vì vậy, việc sản xuất H2 xanh và các chất mang năng lượng như amoniac cùng với các nhà máy năng lượng tái tạo có thể đáp ứng một phần nhu cầu của Việt Nam về lưu trữ và tiêu thụ năng lượng trong giao thông vận tải và các lĩnh vực công nghiệp, lọc hoá dầu, phát điện, tích trữ năng lượng qua pin tích năng, pin nhiên liệu, luyện kim, điện tử, y tế,…
Trong đó, đối với ngành Giao thông Vận tải, H2 sử dụng năng lượng cho các phương tiện về Giao thông đường bộ, đô thị, đường thuỷ và hàng không.
Tương tự với ngành sản xuất điện, nhu cầu nhiên liệu thay thế cho các loại nhiên liệu than và khí thiên nhiên hoá lỏng (LNG) của các nhà máy nhiệt điện theo định hướng đến năm 2030 sẽ không phát triển thêm nhà máy điện than mới; đến năm 2050, các nhà máy điện khí LNG sẽ chuyển đổi 100% sang sử dụng nhiên liệu H2 và dẫn xuất của H2, 50% các nhà máy nhiệt điện than sẽ chuyển đổi sang sử dụng nhiên liệu H2,… Qua kết quả tính toán nhu cầu H2 có thể thấy mức độ sử dụng H2 cho phát triển các ngành kinh tế là rất lớn.
Trong tham luận của ông Nguyễn Văn Trường, Viện Năng Lượng - Bộ Công Thương về tiềm năng sản xuất Hydro xanh ở vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nam Bộ và tiềm năng giảm phát thải CO2 khi sử dụng H2 xanh đến năm 2050 cho lĩnh vực năng lượng, theo nghiên cứu đánh giá, Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo (báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐMT) và điện gió), đặc biệt tại các tỉnh thuộc Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ. Vì vùng Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ có điều kiện thuận lợi về đất đai, nguồn nước và có điều kiện kiện thuận lợi trong việc sản xuất, vận chuyển và sử dụng H2 xanh nhờ thuận lợi về khoảng cách và cơ sở hạ tầng vận chuyển, phân phối, lưu chứa cũng như xuất nhập khẩu H2 xanh.
Do đó, những kịch bản xây dựng sản xuất H2 từ tiềm năng năng lượng tái tạo đến 2050 có thể sản xuất sẽ đáp ứng cao cho một phần nhu cầu H2 xanh cho nền kinh tế; lượng H2 xanh có thể sản xuất đến năm 2030 khoảng 15,04 triệu tấn, năm 2050 khoảng 18,78 triệu tấn.
Hơn nữa, năng lượng tái tạo tại vùng Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ rất lớn là cơ sở để sản xuất H2 xanh và cung cấp cho các ngành kinh tế và công nghiệp lân cận. Để phát triển công nghệ điện phân kết hợp với tiềm năng năng lượng tái tạo tại Việt Nam cần các điều kiện về diện tích đất đủ để phát triển các dự án năng lượng tái tạo và bố trí các máy điện phân, đường ống và thiết bị và kho lưu chứa H2; Nguồn cung nước lớn (9kg/kg H2); Nguồn cung cấp Điện ổn định với giá thành rẻ thường từ nguồn năng lượng tái tạo có hệ thống pin tích năng hoặc điện hạt nhân,… góp phần làm giảm tổng lượng giảm phát thải CO2 đến năm 2030 sẽ giảm khoảng 3,9 triệu tấn, tương ứng với 0,6% so với phát thải cơ sở; đến năm 2050 giảm khoảng 324,4 triệu tấn CO2 tương ứng 26,8% so với phát thải cơ sở.
Qua Đánh giá tổng quan tình hình phát triển H2 trên thế giới, ông Edwin A.Edou - UNDP Việt Nam đã trình bày về hiện trạng các chiến lược phát triển H2 đối với các quốc gia trên toàn thế giới và đưa ra các phương án hỗ trợ Việt Nam đối mặt với thách thức và cơ hội về quá trình phát triển H2 xanh như Phương tiện thay thế cho xe điện chạy bằng pin nhờ ô tô và phương tiện vận tải mặt đất hạng nặng chạy bằng pin nhiên liệu H2, có tiềm năng sử dụng H2 trong tương lai để khử cacbon trong lĩnh vực vận chuyển và hàng không, những rủi ro về đầu tư với chi phí vốn và vận hành, bảo trì có thể mở rộng nhờ các cơ hội xuất khẩu H2 sang các nền kinh tế lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương,…
Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến góp ý và thảo luận của các đại biểu và các chuyên gia tại Hội thảo, ông Lê Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện năng lượng – Bộ Công Thương hy vọng sau những nghiên cứu được chia sẻ và những nhận xét từ nhiều góc nhìn, quan điểm khác nhau sẽ là giúp Viện Năng lượng xây dựng và hoàn thiện báo cáo nghiên cứu.
Nguồn tin: baotainguyenmoitruong.vn/tiem-nang-phat-trien-ve-nang-luong-hydro-xanh-tai-viet-nam-350898.html
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn